Xuất bản thông tin

null Những khó khăn về xử lý tài sản chung trong hoạt động thi hành án dân sự qua công tác kiểm sát

Chi tiết bài viết VKS_TIN PHAPLUAT_XAHOI_BLKHOAHOC

Những khó khăn về xử lý tài sản chung trong hoạt động thi hành án dân sự qua công tác kiểm sát

Thi hành án dân sự liên quan đến tài sản chung là một trong những bất cập trong áp dụng pháp luật thi hành án hiện nay...

= = =

Huỳnh Hồng Việt*

Ngô Văn Lượng**

Tóm tắt: Thi hành án dân sự liên quan đến tài sản chung là một trong những bất cập trong áp dụng pháp luật thi hành án hiện nay. Trên cơ sở những vấn đề lí luận và thực tiễn trong công tác kiểm sát thi hành án dân sự, nhóm tác giả chỉ ra một số bất cập và nhận thức không thống nhất đồng thời, kiến nghị bổ sung quy định của pháp luật để đáp ứng yêu cầu áp dụng pháp luật hiện nay.

ảnh minh hoạ từ Internet

Từ khóa: Tài sản chung, phân chia tài sản, thi hành án.

1. Quy định của pháp luật về xác định tài sản chung

Pháp luật về thi hành án dân sự liên quan đến việc xử lý tài sản chung để thi hành án hiện nay được quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS 2014) và Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Trong quá trình áp dụng còn nhiều quan điểm khác nhau dẫn đến chấp hành viên chưa kịp thời tổ chức thi hành án theo quy định tại Điều 20 Luật thi hành án dân sự.

Việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án được quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS 2014  như sau:

Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này[1] hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

 Tuy nhiên, tại điểm b, c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:

2. Việc kê biên, xử lý tài sản chung của người phải thi hành với người khác được thực hiện như sau:

a) …

b) Trường hợp người phải thi hành án có chung tài sản với người khác mà đã xác định được phần tài sản, quyền tài sản của từng người thì Chấp hành viên kê biên phần tài sản, quyền tài sản của người phải thi hành án để thi hành án theo quy định tại Khoản 2 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự; trường hợp chưa xác định được phần quyền của người phải thi hành án thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp quy định tại Điểm c Khoản này;

c) Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.

Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết.

Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.

2. Nhận thức pháp luật trong việc xác định tài sản chung

Theo Điều 207 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”.

Để thực hiện đúng quy định, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, trong đó việc hướng dẫn thực hiện Điều 74 Luật THADS 2014 được ghi nhận tại Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

Dựa trên Điều 74 Luật THADS 2014 và Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, có thể hiểu việc xử lý đối với tài sản chung sẽ chia ra 02 trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồngtài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình.

Nếu tài sản chung gồm tài sản là quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và tài sản là quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì chấp hành viên có nghĩa vụ xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hay xác định phần sở hữu, sử dụng đất theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Sau khi xác định, chấp hành viên phải thông báo cho vợ, chồng hay các thành viên trong hộ gia đình biết.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ các thành viên trong hộ gia đình không thống nhất thì được quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung.

Hết thời hạn 30 ngày mà không có người yêu cầu thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.

Trường hợp thứ hai: tài sản thuộc quyền sở hữu chung còn lại theo pháp luật (Sở hữu chung trong nhà chung cư, Sở hữu chung hỗn hợp...)

Không như tài sản là quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và tài sản là quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình, trước tiên chấp hành viên có nghĩa vụ xác định phần sở hữu của họ. Còn trong trường hợp này, Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau 30 ngày nếu các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật hay thỏa thuận trái đạo đức xã hội hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án để người được thi hành án yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản… theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự liên quan đến tài sản chung tại địa phương:

Tại địa phương thông thường chấp hành viên chỉ vận dụng Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án (trường hợp thứ nhất) mà không phân biệt rõ phần tài sản thuộc quyền sở hữu chung còn lại theo pháp luật để xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án quy định tại điểm b khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. (như trường hợp thứ hai).  Điều 74 Luật thi hành án năm 2014 cũng chưa quy định cụ thể về việc yêu cầu phân chia của các đồng sở hữu, người được thi hành án và chấp hành viên.

Một số nơi chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định tài sản của người phải thi hành án trong khối chung thì phát sinh một số trường hợp như sau: Một là, Tòa án không thụ lý với lý do là chấp hành viên không có quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 187 Bộ luật TTDS. Hai là, Tòa án đã thụ lý nhưng chấp hành viên không thể đáp ứng được nội dung quy định về việc phải cung cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 6 Bộ luật TTDS. Từ đó, việc xử lý đối với tài sản thuộc sở hữu chung còn gặp nhiều khó khăn, do chưa có sự thống nhất với nhận thức áp dụng pháp luật.

3. Một số khó khăn trong việc áp dụng pháp luật 

3.1. Quy định pháp luật chưa đầy đủ

Thứ nhất: Nếu dựa trên hướng dẫn của Chính phủ về xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thể hiện chấp hành viên không có thông báo cho người được thi hành án biết kết quả về phần sở hữu của vợ, chồng hay phần sở hữu, sử dụng của thành viên hộ gia đình. Từ đó, ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án khi chấp hành viên phân chia không đảm bảo đúng theo pháp luật, gây bất lợi cho người được thi hành án.

Do đó, theo tác giả, cần quy định cụ thể về nghĩa vụ của chấp hành viên trong việc thông báo kết quả xác định phần sở hữu của vợ, chồng; phần sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình cho người được thi hành án biết. Đồng thời quy định trong thời hạn chung người được thi hành có quyền đề nghị chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định khối tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Thứ hai: Quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS 2014  đã chỉ rõ thời gian của một số thủ tục, tuy nhiên chưa quy định thời gian bao lâu để chấp hành viên ra văn bản thông báo cho người được thi hành án, bởi lẽ luật chỉ quy định sau thời gian 30 ngày…nhưng sau đó là bao lâu thì không quy định. Trong thực tiễn, nhiều Chấp hành viên kéo dài thời hạn ra thông báo, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong thi hành án nhưng không có căn cứ, chế tài yêu cầu thực hiện.

Thứ ba: Trên cơ sở kiểm sát việc giải quyết trong quá trình thi hành án đối với tài sản hộ liên quan đến quyền sử dụng đất có rất nhiều khó khăn khi phân chia quyền sử dụng đất của hộ.

Để tháo gỡ khó khăn đối với việc xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi án án, ngày 11/11/2020 lãnh đạo liên ngành gồm Bộ Tư pháp, Viện KDND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã họp và thống nhất như sau: về nguyên tắc là phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 74, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao có văn bản hướng dẫn thống nhất đối với các Tòa án nhân dân địa phương thực hiện. (Công văn số 263/VKSTC-V11 ngày 21/01/2021 của Viện KSND tối cao về việc trả lời khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát thi hành án). Tuy nhiên, cho đến hiện nay quy định pháp luật THADS yêu cầu Chấp hành viên tiến hành phân chia giá trị phần quyền sử dụng đất của người được thi hành án chưa có một văn bản quy phạm pháp luật hay hướng dẫn nào của ngành Trung ương đối với thi hành án về xác định tài sản hộ. Riêng Tòa án tối cao đã hướng dẫn Tòa án các cấp trong việc giải quyết xác định tài sản hộ gia đình như sau: Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất; Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của hộ gia đình, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan[2].

Quy định trên của Tòa án cũng là cơ sở để Chấp hành viên thực hiện việc xác định giá trị phần quyền sử dụng của người được thi hành án. Tuy nhiên, việc xác định gặp rất nhiều khó khăn.

Xác định thành viên hộ vào thời điểm nào: Theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 và mục 4.III Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao thể hiện  thành viên có quyền sử dụng đất của hộ là thời điểm xác định khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất qua hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, quyền sử dụng đất của hộ gia đình nhiều lần thay đổi, cấp lại thì căn cứ vào việc cấp lần đầu hay lần sau cùng, đây là một vấn đề còn xảy ra phổ biến khi tranh chấp về xác định phần giá trị quyền sử dụng đất của thành viên hộ hiện nay mà chưa được hướng dẫn.[3]

Người trong hộ không ký thế chấp thì họ phải có nghĩa vụ liên đới trong tài sản hộ hay không: Khi thế chấp QSD đất thì căn cứ vào thời điểm thế chấp, tại thời điểm công chứng, thành viên trong hộ gia đình chưa đủ 18 tuổi hay đã đủ 18 tuổi nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật về dân sự không buộc phải có nghĩa vụ ký vào hợp đồng thế chấp, nhưng đến khi nợ quá hạn, theo quy định pháp luật thi hành án không được lấy phần tài sản của thành viên đó để thi hành án. Từ đó, khi giải quyết thi hành án thì các tổ chức tín dụng không đảm bảo quyền lợi của mình. Ví dụ:  Năm 2016 hộ ông A được cấp quyền sử dụng đất, tại thời điểm này hộ ông A có có 06 nhân khẩu, trong đó có 3 người chưa đủ 18 tuổi.  Ông A thực hiện việc thế chấp quyền sử dụng đất để vay 1 tỷ đồng, giá trị tài sản được xác định 1,4 tỷ đồng. Đến năm 2020, do không thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, khi giải quyết thi hành án chỉ xác định quyền sử dụng đất ½ ( 03 người đã ký thế chấp) vì những người dưới 18 tuổi không có ký thế chấp, trong khi pháp luật quy định họ có quyền sử dụng. Do đó nếu thực hiện việc thi hành án thì chỉ lấy giá trị tài sản 700 triệu đồng để thi hành, còn 700 triệu là phần còn lại của 3 thành viên không ký thế chấp, chính từ đó làm thiệt hại cho các tổ chức tín dụng.

Xuất phát từ bất cập trong thực tiễn nên Bộ Tài nguyên – Môi trường đã ban hành Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi “Hộ gia đình, gồm ông” (hoặc “Hộ gia đình, gồm bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình như quy định tại Điểm a Khoản này; địa chỉ thường trú của hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Dòng tiếp theo ghi “Cùng sử dụng đất, cùng sở hữu tài sản gắn liền với đất (hoặc Cùng sử dụng đất hoặc Cùng sở hữu tài sản) với … (ghi lần lượt họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của những thành viên còn lại trong hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất).”[4].

Mặc dù việc sửa đổi, bổ sung trên bảo đảm sự chặt chẽ về mặt pháp luật, cụ thể hơn về mặt chủ thể có quyền sử dụng đất, ngoài việc giải quyết những khó khăn hay rào cản mà còn giảm những rủi ro cho người sử dụng đất, minh bạch về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên có chung quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, vì  lo ngại sẽ gây khó khăn khi làm các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc làm các thủ tục thế chấp tài sản bảo lãnh, thế chấp tài sản vay tiền ngân hàng và nhiều ý kiến khác không thống nhất với nội dung trên nên Bộ tài nguyên và môi trường đã dời thời điểm áp dụng sau ngày 5/12/2017, đến thời điểm nào áp dụng thì chưa quy định.

Các tác giả thấy rằng quy định trên của Bộ Tài nguyên – Môi trường rất phù hợp, tạo thuận lợi xác định chủ thể có quyền sử dụng đất một cách chính xác, đảm bảo cho việc thực giao dịch dân sự và giải quyết tranh chấp, nhưng do bị dư luận phản ứng và công tác tuyên truyền còn hạn chế nên quy định này đã không được triển khai để thi hành trên thực tế.

Việc Cơ quan, tổ chức, cá nhân chậm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Cơ quan thi hành án: Theo Điều 11 Luật THADS về  trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan thi hành án dân sự tạo điều kiện về hành lang pháp lý cho Cơ quan thi hành án thực hiện việc giải quyết.

Để xác định thành viên hộ, Chấp hành viên phải tiến hành xác định tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời dựa theo quy định của Luật Đất đai và khoản 2 Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về việc nộp hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, cũng có thể xác định thành viên hộ khi được cấp quyền sử dụng đất, nhưng thực trạng từ cấp xã cho đến nơi cấp giấy chứng nhận QSD đất nhiều hồ sơ bị thất lạc hoặc không được lưu trữ hay hồ sơ không thể hiện tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có những ai là thành viên hộ gia đình. Do đó, chấp hành viên phải xác minh tại Công an cấp huyện khi địa điểm cấp được quyền sử dụng đất là thành phố trực thuộc trung ương còn lại thì xác minh tại Công an cấp xã.

Đối với Công an cấp xã vì không có đủ điều kiện quản lý hồ sơ lâu dài nên nhiều xã chuyển hồ sơ về huyện quản lý, do đó lại phải xác minh tại Công an cấp huyện. Việc xác minh qua nhiều bước, gây khó khăn  kéo dài thời gian giải quyết.

3.2. Hướng dẫn pháp luật chưa phù hợp

Điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: …Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản …

Pháp luật quy định về hình thức đã xác định việc xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự là một trong những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án[5]. Đồng thời khái niệm, phạm vi về yêu cầu và khởi kiện được quy định cụ thể trong pháp luật hình thức. Trong đó, khởi kiện là thủ tục ban đầu để hình thành một vụ án còn yêu cầu là thủ tục ban đầu để phát sinh một việc dân sự[6]. Nhưng điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP lại quy định: “Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản...” là chưa phù hợp, mà cụm từ “khởi kiện” cần nên thay đổi thành “yêu cầu” để đảm bảo đúng thuật ngữa pháp lý trong trường hợp xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định pháp luật.

4. Kết luận và đề xuất bổ sung quy định của pháp luật

Để hạn chế phát sinh tranh chấp dân sự, đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự cũng như tổ chức thi hành các phán quyết của Tòa án liên quan đến trách nhiệm dân sự được thuận lợi. Qua nội dung bài viết trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị :

- Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, cần sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau đây:

+ Tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cần thay đổi cụm từ “khởi kiện” để sửa đổi phù hợp với Luật hình thức trong dân sự.

+ Bổ sung quyền của người được thi hành án trong việc xác định giá trị quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình liên quan đến quyền lợi được thi hành án của mình.

+ Quy định giới hạn thời gian chấp hành viên phải thực hiện thông báo việc xác định phân chia giá trị quyền sử dụng đất của bên phải thi hành án cho bên được thi hành án;

- Pháp luật dân sự cần quy định: Khi thế chấp tài sản hộ, người đại diện theo pháp luật của những người trong hộ khi chưa đủ 18 tuổi hay đủ 18 tuổi nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng thế chấp cần ghi rõ là người đại diện cho những người này có trách nhiệm thế chấp tài sản ghi trong hộ, đồng thời khi phát sinh nghĩa vụ thì phần quyền sử dụng đất trên được xử lý theo luật thi hành án dân sự.

- Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, lưu trữ hồ sơ, sổ quản lý, theo dõi và thực hiện tốt quy định tại Điều 11 Luật THADS về việc cung cấp thông tin, phối hợp trong việc giải quyết của Tòa và tổ chức thi hành án dân sự. Kịp thời hướng dẫn xác định giá trị tài sản hộ và nghĩa vụ pháp lý của thành viên hộ đối với quyền sử dụng đất cấp cho hộ trong thời gian qua./.

Tài liệu tham khảo:

01. Bộ luật dân sự 1995;

02. Bộ luật dân sự 2005;

03. Bộ luật dân sự 2015;

04. Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

05. Luật Đất đai 1993;

06. Luật Đất đai 2013;

07. Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;

08. Nghị định số 64-cp ngày 27-9-1993 của Chính phủ về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp;

09. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai quy định về việc nộp hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai;

10. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;

11. Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;

12. Nghị định số: 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính Phủ về việc  sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;

13. Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/05/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

14. Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên – Môi trường quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;

15. Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ

16.Từ điển luật học (2016), Bộ tư pháp- viện khoa học pháp lý Nhà xuất bản, Nxb từ điển Bách khoa -Tư pháp;

17.Từ điển tiếng việt (2014), Lê Tiến Dũng, Nhà xuất bản văn hóa thông tin;

18. Ngô Văn Lượng, Bất cập trong thi hành án dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình; Tạp chí dân chủ và pháp luật, số tháng 11( 334)/2020;

19. Lưu Thị Tuyết,  Hạn chế bất cập trong việc cấp GCN quyền sử dụng đất cho hộ gia đình hiện nay, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/de-han-che-bat-cap-trong-viec-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-cho-ho-gia-dinh-hien-nay, [ truy cập 02/4/2020];

20. Lê Văn Đài, Không nên quy định hộ gia đình là một chủ thể của quan hệ dân sự , http://baochinhphu.vn/Lay-y-kien-nhan-dan-ve-du-thao-Bo-luat-dan-su-sua-doi/Khong-nen-quy-dinh-ho-gia-dinh-la-1-chu-the-cua-quan-he-dan-su/219147.vgp; [ Truy cập 03/5/2020].

21. Văn Thị Tâm Hồng , Một số khó khăn, vướng mắc trong việc xác định, phân chia quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong hộ gia đình để thi hành án,

http://thads.moj.gov.vn/tuyenquang/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_detail.aspx?itemid=68; [ Truy cập 03/5/2020].


* Phó Viện trưởng - Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp;

**KSVTC- Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp

[1] Điều 6. Thỏa thuận thi hành án:

1. Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận.. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án

2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.

[2] Theo mục 4.III Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ

[3] Ngô Văn Lượng, Bất cập trong thi hành án dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình; Tạp chí dân chủ và pháp luật, số tháng 11( 334)/2020; tr 59.

[4] Khoản 5, Điều 6 của Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên – Môi trường;

[5] Khoản 9 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[6] Xem Điều 186 và 361 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.