Xuất bản thông tin

null Vướng mắc về việc xác định tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình

CHUYỂN ĐỔI SỐ VKS_TIN PHAPLUAT_XAHOI_BLKHOAHOC

Vướng mắc về việc xác định tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất

= = = =

 

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Áp dụng quy định của pháp luật về quy định cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua các thời kỳ, hiện nay xảy ra không ít bất cập trong quá trình giải quyết các vụ án tại các địa phương. Đặc biệt , thực tiễn giải quyết các vụ án xác định tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, có nhiều quan điểm giải quyết khác nhau.

Nội dung vụ án:

Vào năm 2010 ông Nguyễn Văn A và vợ là Lê Thị F có vay Ngân hàng Y số tiền 200.000.000 đồng, quá trình ông A vay tiền Ngân hàng Y thì ông có thế chấp tài sản là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa số 02, tờ bản đồ số 02, diện tích 200m2 , đất cấp cho hộ ông Nguyễn Văn A. Đến hạn trả tiền ông A, bà F không trả tiền cho Ngân hàng Y. Ngân hàng Y khởi kiện yêu cầu ông A, bà F trả số tiền 200.000.000 đồng. Theo quyết định công nhận sự thoả thuận số 20/2012/QĐST-DS ngày 19/8/2012 của Toà án nhân dân huyện Y thì ông Nguyễn Văn A, bà Lê Thị F có trách nhiệm liên đới trả tiền cho Ngân hàng Y số tiền 200.000.000 đồng và lãi chậm thi hành án, nộp án phí theo quy định. Căn cứ đơn yêu cầu thi hành án của Ngân hàng Y, Chi cục thi hành án dân sự huyện Y ra quyết định thi hành án số 10/QĐ-CCTHADS ngày 30/8/2012 để đưa vụ án ra thi hành. Để đảm bảo thi hành án, ngày 03/8/2013 Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế kê biên tài sản quyền sử dụng đất thuộc thửa số 02, tờ bản đồ số 02, diện tích 200m2 , đất cấp cho hộ ông Nguyễn Văn A. Sau nhiều lần giảm giá tài sản, giá trị tài sản còn lại 300.000.000 đồng. Ngày 22/4/2015 Công ty bán đấu giá tài sản Z tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Văn A và bà Lê Thị C là người trúng đấu giá. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn A không tự nguyện giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Quá trình chuẩn bị cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu giá thì các con của ông Nguyễn Văn A gồm Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn E khiếu nại cho rằng hợp đồng thế chấp tài sản để vay vốn tại Ngân hàng Y của ông Nguyễn Văn A, bà Lê Thị F những người con này không biết, không có ký tên mặc dù là thành viên trong hộ, quá trình bán đấu giá tài sản cũng không hay biết. Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn E gửi đơn đến Toà án huyện Y với nội dung: Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 02, tờ bản đồ số 02, diện tích 200m2  được cấp lần đầu vào ngày 11/10/1996 và cấp đổi vào ngày 30/6/2003. Thời điểm cấp đất vào ngày 11/10/1996 hộ ông Nguyễn Văn A gồm 04 thành viên là ông Nguyễn Văn A, bà Lê Thị F (vợ) và các con ruột là anh Nguyễn Văn D và anh Nguyễn Văn E. Thời điểm cấp đổi đất vào ngày 30/6/2003 hộ ông Nguyễn Văn A gồm 06 thành viên là ông Nguyễn Văn A, bà Lê Thị F (vợ), anh Nguyễn Văn D (con ruột),  anh Nguyễn Văn E (con ruột), Đào Thị X (con dâu) và Nguyễn Thị B (cháu nội). Nguyễn Văn D và anh Nguyễn Văn E yêu cầu xác định tài sản chung trong hộ là Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 02, tờ bản đồ số 02, diện tích 200m2 gồm 04 thành viên: ông Nguyễn Văn A, Lê Thị F, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn E (hộ đang sinh sống trên đất hiện nay), để thi hành án, anh Nguyễn Văn D yêu cầu được nhận tài sản.

Tuy nhiên, về đường lối giải quyết vụ việc này còn có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Nguyễn Văn A vào năm 2003 thì chia làm 04 phần gồm: ông A, vợ là bà F và hai người con ruột là anh D, anh E.

Quan điểm thứ hai: Quan điểm này cho rằng nếu căn cứ theo hộ khẩu tại thời điểm cấp đất năm 2003 thì phải chia đều làm 06 phần gồm: ông A, bà F (vợ), anh  D (con ruột),  anh  E (con ruột), chị X (con dâu) và cháu B (cháu nội).

Quan điểm thứ ba cũng là quan điểm của tác giả: Xác định quyền sử dụng đất là của cá nhân ông Nguyễn Văn A và vợ là bà Lê Thị F, bởi vì: Căn cứ hồ sơ cấp đất cho cá nhân ông Nguyễn Văn A vào năm 1996 ghi nguồn gốc thửa đất số 02, tờ bản đồ số 02, diện tích 200m2  là của cha mẹ ông Nguyễn Văn A cho ông A sử dụng từ năm 1976, thời điểm này người con lớn nhất của ông Nguyễn Văn A sinh năm 1976 nên các con của ông Nguyễn Văn A không có công sức gì trong việc tạo lập tài sản. Năm 1996 ông A kê khai đăng ký tên người sử dụng đất là “Nguyễn Văn A và vợ là Lê Thị F”, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cá nhân ông “Nguyễn Văn A”. Như vậy, xác định đây là quyền sử dụng đất của cá nhân ông Nguyễn Văn A và bà Lê Thị F. Năm 2003, thực hiện theo chủ trương đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Nhà nước và đơn xin đổi giấy ông A ghi hộ ông A và được cấp thành hộ ông Nguyễn Văn A. Căn cứ vào hồ sơ cấp đổi không có văn bản thoả thuận của ông A cho các con đồng sở hữu hoặc có danh sách các thành viên trong hộ gia đình là các con của ông A gồm những ai hoặc hợp đồng tặng cho theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995. Căn cứ hồ sơ vay tiền vào năm 2010 ông A, bà F vay tiền để làm kinh tế gia đình (mua bán) và thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng do ông A, bà F ký thế chấp, thể hiện ý chí xác định tài sản này là của ông A, bà F và tài sản cũng đã được bán đấu giá để thi hành án trả nợ cho Ngân hàng Y. Các con của ông Nguyễn Văn A dựa vào chữ : Hộ để cho rằng đất thuộc quyền sở hữu chung của ông A và các con là không phù hợp, đồng thời các con của ông A không có chứng cứ chứng minh là tài sản hộ theo quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm của cá nhân bình luận về nội dung xác định tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi ý kiến của đồng nghiệp và bạn đọc./.

                                                                          Võ Thị Trang